chú đại bi giọng miền bắc
Phương ngữ là từ không có trong tiếng phổ thông, được sử dụng hạn chế trong 1 vài cộng đồng người dân nhất định. Ngọng là phát âm sai của một từ đã có trong tiếng phổ thông. Ví dụ: từ cũ mà nói hoặc viết thành củ, sẽ gây hiểu sai thành củ gì đó, ví dụ củ
Cách thức tụng hiểu Chú Đại Bi. Chụ Đại Bi buộc phải đề nghị được trì tụng phệ giờ, giọng điệu trầm hùng, nkhô cứng cùng liên tiếp bằng phương pháp lấy hơi từ bỏ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không tức là ta bắt buộc la lớn lên, cơ mà giọng phát âm phải rõ
5. Chú đại bi tiếng Phạn (Sanskrit) 1. Chú Đại Bi là gì? Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni của Phật Quán Thế Âm, gọi tắt là Chú Đại Bi. Chú Đại Bi có thảy là 84 câu, 415 chữ. Trong tất cả Kinh điển và Mật Chú của Phật giáo đều chia làm hai phần
Công năng của Chú Đại Bi. Công dụng của Chú Đại Bi là bảo vệ, thanh lọc và phát triển lòng từ bi. Sự mầu nhiệm và linh nghiệm của Chú Đại Bi là không thể bàn cãi. Nó có tác dụng bảo vệ, thanh lọc và cũng có thể chữa lành tất cả loại bệnh, nhất là những phiền
1 Chuẩn bị trước khi đọc chú Đại Bi. 1.1 Chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng; 1.2 Bàn thờ; 1.3 Cách thức ngồi, lạy; 2 Cách đọc chú Đại Bi; 3 84 câu chú Đại Bi
Site De Rencontre Gratuit Dans Le 44.
Chú đại bi là một thần chú có thể nói là không quá xa lạ đối với phật tử Việt Nam, sự linh nghiệm của chú đại bi đã không biết bao nhiêu lần cứu khổ cứu nạn hàng chúng sanh cõi trần thế Thần chú đại bi là một bài kinh rất dễ đọc cũng như dễ thuộc, nhưng uy lực đằng sau tiếng chú đó thì thật không thể nào tả nổi, bài viết này Phượng Hoàng Shan xin đưa bạn đọc khám phá sâu thêm về ý nghĩa của chú đại bị và hướng dẫn mọi người cách đọc cũng như san sẻ những điều hiển linh khi đọc tụng chú dược sư nhé . Nội dung chính1 NGHĨA CHÚ ĐẠI BI VÀ NGUỒN GỐC 2 CHÚ ĐẠI BI Ý NGHĨA VÀ SỰ NHIỆM MÀU Lợi ích khi tụng chú đại bi Không rơi vào những cái chết hoạnh tử 3 ĐẠI BI CÓ TÁC DỤNG GÌ TỤNG KINH CHÚ ĐẠI BI CẦU CON TỤNG CHÚ ĐẠI BI DỄ TỤNG CHÚ ĐẠI BI XUA ĐUỔI TÀ MA4 ĐẠI BI TIẾNG PHẠN, TIẾNG VIỆT, TIẾNG HOA, TIẾNG MẬT TÔNG, PALI CHÚ ĐẠI BI TIẾNG PHẠN BẰNG CHỮ CHÚ ĐẠI BI TIẾNG VIỆT 84 CÂU NGHE CHÚ ĐẠI BI MP3 TIẾNG VIỆT CÁC PHIÊN BẢN CHÚ ĐẠI BI CHÚ ĐẠI BI 3,5,7,9,21,49,108 BIẾN LÀ GÌ? CHÚ ĐẠI BI PDF CHÚ ĐẠI BI MP3 DOWNLOAD CHÚ ĐẠI BI TIẾNG HOA-TRUNG QUỐC BẰNG CHỮ CHÚ ĐẠI BI TIẾNG MẬT TÔNG-TÂY TẠNG-PALI5 ན༌མོ༌རཏྣ༌ཏྲ༌ཡཱ༌ཡ།6 ན༌མཿ༌ཨཱཪྱ༌ཛྙཱ༌ན༌ས༌ག༌ར། བཻ༌རོ༌ཙ༌ན༌བྻཱུ༌ཧ༌རཱ༌ཛཱ༌ཡ། ཏ༌ཐཱ༌ག༌ཏཱ༌ཡ། ཨརྷ༌ཏེ༌སམྱཀ༌སམྦུ༌དྡྷཱ༌ཡ།7 ན༌མཿ༌སརྦ༌ཏ༌ཐཱ༌ག༌ཏ༌བྷྱཿ། ཨརྷཏེབྷྱཿ༌སམྱཀ༌སམྦུ༌དྡྷེ༌བྷྱཿ༌8 ན། མཿ༌ཨཱརྱ༌ཨ༌ཝ༌ལོ༌ཀི༌ཏེ༌ཤྭ༌རཱ༌ཡ། བོ༌དྷིི༌སཏྟྭ༌ཡ། མཧཱ༌ས༌ཏྟྭ༌ཡ། མཧཱ༌ཀ༌རུ༌ཎི༌ཀཱ༌ཡ།9 ཏདྱ༌ཐཱ། ༀ༌དྷ༌ར༌དྷ༌ར།10 དྷི༌རི༌དྷི༌རི། དྷུ༌རུ༌དྷུ༌རུ། ཨི༌ཊྚི༌ཝ༌ཊྚི། ཙ༌ལེ༌ཙ༌ལེ། པྲ༌ཙ༌ལེ༌པྲ༌ཙ༌ལེ།11 ཀུ༌སུ༌མེ༌ཀུ༌སུ༌མེ༌ཝ༌རེ། ཨི༌ལི༌མི༌ལི། ཙི༌ཏི༌ཛཱ༌ལ༌ཨ༌པ༌ན༌ཡེ༌སྭཱཧཱ ༎12 5. HƯỚNG DẪN CÁCH TRÌ CHÚ ĐẠI 84 CÂU DỄ THUỘC Share this Related NGHĨA CHÚ ĐẠI BI VÀ NGUỒN GỐC Chú đại bi là thần chú nằm trong kinh Gia Phạm Đạt Ma dịch từ chân kinh “ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni “, tên thường biết đến của chân kinh này là “Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni” chiếu theo nội dung kinh, chú đại bi có rất nhiều phiên bản dài ngắn khác nhau, tuy nhiên hiện nay trong nhà phật lại lưu truyền thông thành 84 câu chú được dịch bởi Gia Phạm Đạt Ma, 84 câu chú đại bi này dựa trên phần cuối của kinh “Đại Chánh Tạng” mà viết tiếp, tuy nhiên phiên bản đã được tu sửa khác xa nguyên tác ban đầu của tác giả Chú đại bi trong phật học mang ý nghĩa tích cực to lớn, tương truyền chú đại bi được đích thân Quan Thế Âm Bồ Tát vì lợi lạc của tất cả chúng sanh thần vương mà diễn pháp, thần chú còn mang vô số ý nghĩa to lớn như bảo hộ chúng sanh tiêu trừ khổ nạn ,giúp chúng sanh vượt qua biển khổ của nhân gian mà từ đó giác chánh giải thoát, lợi lạc của chú đại bị ví như nước biển đông hải không sao tỏ được. CHÚ ĐẠI BI Ý NGHĨA VÀ SỰ NHIỆM MÀU Như ở trên Phượng Hoàng Shan chúng tôi có đề cập, đọc tụng thần chú đại bi nhiệm màu vô cùng Lợi ích khi tụng chú đại bi Thường đước sinh ra nới giàu sang phú quý Thường được sinh ra ở những nước yên vui lạc thú Thường được sinh ra ở những tịnh thổ có Phật Thường được sinh ra mang dáng vẻ đẹp đẽ, người mến Thường gặp được nhiều quý nhân giúp đỡ trong cuộc sống Thường gặp và kết giao với những người bạn tốt Thường được sinh ra tứ chi đầy đủ, thông minh lanh lợi Thường là người vốn có căn lành tốt bụng Thường là người sở hữu tuệ căn phước thiện Thường được hưởng trọn niềm vui trong cuộc sống Gia đình hòa thuận ấm êm Thường được chư Thần Phật Bồ Tát phù hộ Thường được ra vào nơi quyền quý an lạc vô cùng Thường được tùy tâm ứng nguyện, cầu gì cũng được cả Chết đi được đầu thai nơi tịnh thổ Phật Quốc Không rơi vào những cái chết hoạnh tử 1. Không phải chết vì đói khổ 2. Không phải chết vì bị đánh đập, tù tội 3. Không phải chết vì bị oan gia đòi mạng 4. Không phải chết vì nghiệp binh đao 5. Không phải chết phanh thay vì bị cọp thú xé xác 6. Không phải chết vì bị côn trùng nhỏ ô nhiễm cắn chết 7. Không phải chết vì bị loài rắn rết, bò sát hành hình 8. Không phải chết vì bị chết cháy, chết sông 9. Không phải chết vì bị thuốc độc 10. Không phải chết vì bị điên cuồng điên dại 11. Không phải chết mất xác hoặc bất đắc kì tử 12. Không phải chết vì bùa ngãi trù yểm 13. Không phải chết vì quỷ ma oan gia trái chủ 14. Không phải chết vì bệnh hiểm nghèo 15. Không phải chết vì tự kết liễu Tụng Chú Đại Bi Không Rơi Vào Các Chết Hoạnh Tử TỤNG KINH CHÚ ĐẠI BI CẦU CON Hiện nay có rất nhiều mái ấm gia đình còn trẻ nhưng đều gặp thực trạng vô sinh, mặc dầu tuổi đời chưa ngoài tam thập ngũ tuần 35 tuổi, nhiều cặp vợ chồng lấy nhau hơn 10 năm nhưng một đứa trẻ vẫn không có, họ thật sự rất thèm được nghe tiếng khóc trẻ thơ, điều đó thật sự quá khó với họ và nhiều người thậm chí còn đã bỏ cuộc . Nhưng khi họ bỏ cuộc và chỉ biết gửi gấm niềm tin vào phật pháp và đọc tụng kinh chú đại bi, thì chính lúc này sự linh ứng kì diệu lại đến, bài viết này Phượng Hoàng Shan xin san sẻ những câu truyện có thật về Phật Pháp nhiệm màu, chỉ qua một bài kinh Chú Đại Bi đã làm biến hóa đời sống vốn dĩ đơn buồn tẻ đơn độc của những mái ấm gia đình ấy Xưa kia tại đất Biên Hòa vào trước những năm 75, có 1 cặp vợ chồng làm nghề kinh doanh gỗ quý rất phong phú, trong nhà người ở có đến hơn trăm người, kẻ hầu người hạ không sao đếm xuể, nhưng ông trời luôn thử thách lòng người, họ lại mang trong mình một nỗi khổ không sao miêu tả . Lấy nhau suốt 20 năm nhưng 1 đứa trẻ cũng không có nổi, đất Nam Bộ thời đó toàn bộ thầy bà giỏi, thầy lang từ miền Nam ra đến miền Bắc đều không giúp được, lúc này lòng họ thật sự đã bỏ cuộc và dự tính nuôi con chó mật đen trong nhà thay cho trẻ con . Cho đến một ngày, trong nhà họ có một gia nô tên là ông Tám, ông này là người hoa, mỗi ngày sau khi đi làm về ông đều đi đến ngôi chùa Ông Quảng Trạch Tôn Vương tên ngôi chùa là Phụng Sơn Tự, ngôi chùa này thờ chính là ngài Quảng Trạch nhưng kế bên hùng điện lại là một điện thờ mẹ Quan Âm nhỏ, hằng ngày ông đều đến đó tụng kinh chú đại bi Ông chủ hỏi ông nguyên do tại sao ông lại đọc kinh chú đại bi, ông Tám mới nói về những sự nhiệm màu và quyền lợi từ kinh chú đại bi mà đã giúp cứu sống người mẹ già bị bệnh liệt nữa người ở nhà, sau 2 năm ông trì tụng chú đại bi nay đã hoàn toàn có thể đứng dậy và đi được như người thông thường Ông chủ nghe xong lời ông Tám kể ông liền nghĩ đến sự linh ứng và nảy ra dự tính tụng kinh chú đại bi cầu con cho mình, với quyết tâm tìm hiểu và khám phá và xin ông Tám mỗi ngày cho mái ấm gia đình ông được cùng đi theo đến Phụng Sơn Tự trì tụng kinh chú dược sư, quả thật ! người có lòng trời cao luôn chứng giám, sau 1 năm kiên trì tụng kinh ông và vợ sau cuối cũng xin ra được cô công chúa ngoan hiền và hiếu thảo . Điều kì quặc là trước khi vợ ông sinh con, một tuần trước đó hai vợ chồng đều mơ thấy chung 1 giấc mơ, trong mơ mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát Hiển Linh và bảo rằng ” Hãy khéo đỡ đứa bé này, đây là đứa trẻ mưu trí mưu trí, những ngươi hãy nhớ lấy “ Sau này ông chủ đó đã dùng hơn phân nữa tài sản của mình vào việc ấn tống in kinh chú đại bi và đem phân phác miễn phí mọi người và đem sự linh ứng nhiệm màu về câu chuyện tụng chú đại bi cầu con của mình kể khắp cả Tụng Kinh Chú Đại Bi Cầu Con Tại Phụng Sơn Tự TỤNG CHÚ ĐẠI BI DỄ NGŨ Có thể nói một giấc ngủ sâu giấc, ngủ ngon, ngủ trong êm ái là điều tưởng chừng sau một ngày thao tác mệt mõi ai ai cũng đều được đền bù xứng danh để phục sinh nguồn năng lượng chuẩn bị sẵn sàng cho ngày thao tác tiếp theo đó, theo báo cáo giải trình khoa học một người ngủ trung bình sẽ có thời hạn từ 7-8 tiếng . Đó là với những người thông thường, còn so với những người bị bệnh mất ngủ liên tục, mất ngủ kinh niên thì sao, họ thường sẽ không được ngủ sâu giấc, nhiều khi một ngày họ chỉ hoàn toàn có thể ngủ được 1-2 tiếng, thậm chí còn có những người bị bệnh mất ngủ kinh niên trầm trọng đến nổi suốt mấy ngày không ngủ được Đến nhiều nơi khám và chữa bệnh, Nước Ta có Tây Tàu đều cũng đi, nhưng đều không trị khỏi, tác dụng là họ có cơ duyên đến với phật pháp được hướng dẫn tụng kinh chú đại bi, để rồi lời kinh và sự linh ứng đã đưa họ về một giấc ngủ cân đối trở lại Tụng Chú Đại Bi Dễ Ngũ TỤNG CHÚ ĐẠI BI XUA ĐUỔI TÀ MA Lâu nay những yếu tố xoay quanh quốc tế tâm linh ma quỷ có thật hay không ? luôn là điều mà mọi người buôn chuyện, nhân gian luôn miệng truyền nhau những câu truyện và những điều kì quặc mà ngay cả khoa học cũng không hề có câu vấn đáp, đó là hiện tượng kỳ lạ ma quỷ . Ngay cả đến những nhà sư cũng đã từng có những buổi diễn thuyết nói sâu vào yếu tố này, là một người phật tử tất cả chúng ta không nên vội phán xét điều này là sự mê tín dị đoan dị đoan, mà phải nên đối lập thẳng vào yếu tố mới hiểu được những dị tượng đó, và đôi lúc chính ta hoặc người thân trong gia đình ta trải qua rồi thì mới cảm thấy được sự kỳ lạ này . Thế giới con người này, nhân quả là điều khó ai tránh khỏi và nó thị hiện vô cùng phức tạp, trong khi trí tuệ của bậc phàm nhân như tất cả chúng ta thì lại có sự số lượng giới hạn Đây là câu truyện có thật của một anh phật tử đang theo học đạo tại núi Tà Cú Đà Lạt Lâm Đồng, Pháp Danh của anh là Trí Tịnh, hơn 5 năm về trước, anh cùng mái ấm gia đình từ vào sinh sống tại TP TP HCM, mái ấm gia đình anh vốn xuất phát từ truyền thống cuội nguồn không có đạo, chỉ thờ ông bà hương khói . Chuyện lạ là từ khi ba anh chuyển đến TP TP HCM không bao lâu thì cứ mỗi đêm đến 1 h giờ khuya là bị đau đầu kinh niên, đau đến nổi ba anh nhiều lần đòi tự tử cho xong cái mạng này Có lần Trí Tịnh từ Đà Lạt quay về Hồ Chí Minh thăm ba cũng cảm thấy thực trạng ba anh ngày càng nặng, vốn dĩ là người có duyên với Phật Pháp, anh đã khuyen ba anh khởi tâm đọc tụng kinh Chú Đại Bi, sau nhiều lần khuyên nhủ ba mình, ba anh cũng đã chấp thuận đồng ý Theo những gì mình được sư thầy chỉ dẫn, anh hướng dẫn ba mình mỗi ngày đọc 108 biến chú đại bi chia thành sáng trưa chiều hoặc tối, và đặt thêm 1 chiếc máy chú đại bi mp3 tiếng việt, để cho chiếc máy chú đại bi mp3 đó như nhắc nhở ba anh đọc theo Thời gian đầu đọc được hơn 1 tháng, phối hợp uống thuốc tây y nhưng bệnh của ba anh vẫn không có tín hiệu suy giảm, lúc này ba anh đã đem lòng nản ý và muốn buông bỏ vì không thấy được sự quyền lợi từ kinh chú đại bi Trí Tịnh mặt khác vẫn khuyên nhủ ba anh phải kiên trì và thậm chí còn anh còn bí mật đem chuyện ba mình kể lại cho những đồng tu trong đạo tràng nhờ mọi người cùng nhau trì chú đại bi giúp ba, thì đúng lúc này vào đem thứ 8 sau khi cả đạo tràng cùng nhau trì chú đại bi giúp ba anh Đêm đó ba anh vẫn trải qua cơn đau như mọi ngày lúc 1 h, nhưng đau kì này thì nó kinh khủng hơn những đêm trước, nó làm cho ba anh chảy cả nước mắt và lăng ra đất nằm bất động, cả nhà Trí Tịnh lúc này khóc rất nhiều vì ai cũng nghĩ rằng ba anh đã qua đời Mọi người ai nấy đều khóc rất nhiều và đã chuẩn bị sẵn sàng gọi cho đơn vị chức năng mai táng thì ba anh chợt ngồi dậy, xung quanh ông ai cũng giật bắn người, vì rõ ràng cách đây 30 p ông đã tắt thở và nằm bất động . Nhưng lần này ông ngồi dậy nhưng thần thái ông rất khác, ông nói với mẹ và anh của Trí Tịnh rằng ” bà có biết trong mơ tôi gặp được mẹ quan âm, tôi thấy mẹ quan âm cho tôi 1 viên thuốc nói tôi uống mau đi rồi thức dậy, tôi vừa uống xong là tôi thức dậy luôn đấy “ Gia định Trí Tịnh nghe xong cũng cảm thấy lạ, nhưng mọi người nghĩ chắc do ba Trí Tịnh vì đau quá phát điên và mơ viễn tưởng rồi, nhưng Phật Bà Hiển Linh đã Open, sau lần đó không còn lần nào ba anh phải trải qua một cơn đau nào nữa . Kể từ đó mái ấm gia đình anh nhất là ba anh đã quyết định hành động quy y tam bảo và đem sự màu nhiệm này Viral khắp cho những người mà ông ta quen, hướng dẫn họ tụng kinh chú đại bi và đem câu truyện chú đại bi linh ứng lan tỏa khắp nơi Từ thời xưa cho đến nay, sự màu nhiệm của những thần chú không phải là một sự hoang đường mà trọn vẹn có thật do tất cả chúng ta tu luyện mà có, hàng chúng sanh tất cả chúng ta phải nên cung kính và có niềm tin thực thi chánh pháp chứ thật sự những chuyện này không thể nào lý giải được Tụng Chú Đại Bi Xua Đuổi Tà Ma ĐẠI BI TIẾNG PHẠN, TIẾNG VIỆT, TIẾNG HOA, TIẾNG MẬT TÔNG, PALI CHÚ ĐẠI BI TIẾNG PHẠN BẰNG CHỮ Namo ratnatràyàya. Namo Aryàvalokites’varàya Bodhisattvaya Mahasattvaya Mahàkarunikàya . Om sarva rabhaye sunadhàsya . Namo skirtva imam aryàvalotites’vara ramdhava . Namo narakindhi hrih mahàvadhasvàme . Sarvàrthato subham ajeyam sarvasata. Namo varga mahàdhàtu . Tadyathà om avaloki lokate karate . Ehrih mahà bodhisattva sarva sarva mala mala . Mahi hrdayam kuru kuru karman . Dhuru dhuru vijàyate mahàvijayati . Dhara dhara dhirini svaràya . Cala cala mama vimala muktir . Ehi ehi s’ina s’ina àrsam prasari . Basha basham prasàya hulu hulu mara . Hulu hulu hrih sara sara siri siri suru suru . Bodhiya bodhiya bodhaya bodhaya . Maitreya narakindi dhrish nina . Bhayamana svaha siddhaya svàhà . Maha siddhàya svaha . Siddha yoge s’varaya svaha. Nirakindi svàhà . Mara nara svaha s’ira Simha mukhàya svaha . Sarva maha asiddhaya svaha. Cakràsiddhaya svaha . Padma kastàya svaha . Nirakindi vagalàya svaha . Mavari śankaraya svāhā . Namo ratnatràyàya. Namo aryàvalokites’varaya svaha . Om siddhyantu mantra pàdàya svàhà . CHÚ ĐẠI BI TIẾNG VIỆT 84 CÂU Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 2. Nam mô a rị da 3. Bà lô yết đế thước bát ra da 4. Bồ Đề tát đỏa bà da 5. Ma ha tát đỏa bà da 6. Ma ha ca lô ni ca da 7. Án 8. Tát bàn ra phạt duệ 9. Số đát na đát tỏa 10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da 11. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà 12. Nam mô na ra cẩn trì 13. Hê rị, ma ha bàn đa sa mế 14. Tát bà a tha đậu du bằng 15. A thệ dựng 16. Tát bà tát đa Na ma bà tát đa 17. Na ma bà dà 18. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha 19. Án. A bà lô hê 20. Lô ca đế 21. Ca ra đế 22. Di hê rị 23. Ma ha bồ đề tát đỏa 24. Tát bà tát bà 25. Ma ra ma ra 26. Ma hê ma hê rị đà dựng 27. Cu lô cu lô yết mông 28. Độ lô độ lô phạt xà da đế 29. Ma ha phạt xà da đế 30. Đà ra đà ra 31. Địa rị ni 32. Thất Phật ra da 33. Giá ra giá ra 34. Mạ mạ phạt ma ra 35. Mục đế lệ 36. Y hê di hê 37. Thất na thất na 38 A Ra sâm Phật ra xá lợi 39. Phạt sa phạt sâm 40. Phật ra xá da 41. Hô lô hô lô ma ra 42. Hô lô hô lô hê rị 43. Ta ra ta ra 44. Tất rị tất rị 45. Tô rô tô rô 46. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ 47. Bồ đà dạ bồ đà dạ 48. Di đế rị dạ 49. Na ra cẩn trì 50. Địa rị sắc ni na 51. Ba dạ ma na 52. Ta bà ha 53. Tất đà dạ 54. Ta bà ha 55. Ma ha tất đà dạ 56. Ta bà ha 57. Tất đà du nghệ 58. Thất bàn ra dạ 59. Ta bà ha 60. Na ra cẩn trì 61. Ta bà ha 62. Ma ra na ra 63. Ta bà ha 64. Tất ra tăng a mục khê da 65. Ta bà ha 66. Ta bà ma ha a tất đà dạ 67. Ta bà ha 68. Giả kiết ra a tất đà dạ 69. Ta bà ha 70. Ba đà ma kiết tất đà dạ 71. Ta bà ha 72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ 73. Ta bà ha 74. Ma bà rị thắng yết ra dạ 75. Ta bà ha 76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da 77. Nam mô a rị da 78. Bà lô kiết đế 79. Thước bàn ra dạ 80. Ta bà ha 81. Án. Tất điện đô 82. Mạn đà ra 83. Bạt đà gia 84. Ta bà ha. Chú Đại Bi Tiếng Việt 84 Câu Dễ Thuộc NGHE CHÚ ĐẠI BI MP3 TIẾNG VIỆT Hiện nay thời đại công nghệ thông tin tăng trưởng, việc tất cả chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng công nghệ tiên tiến đại chúng vào trong quy trình tu học là điều rất tốt, những bạn hoàn toàn có thể thuận tiện tìm mua những chiếc máy trên thị trường như chú đại bi mp3 với những phiên bản chú đại bi có lời, chú đại bi không lời, qua những sự lựa chọn như chú đại bi giọng nữ, giọng sư cô tụng, giọng sư thầy tụng, chú đại bi đọc nhanh, chú đại bi đọc chậm CÁC PHIÊN BẢN CHÚ ĐẠI BI CHÚ ĐẠI BI 3,5,7,9,21,49,108 BIẾN LÀ GÌ? Khi tích lũy thông tin từ những đạo tràng, quý thầy thượng được phật tử hỏi về chú đại bi 7 biến là gì, và sau đây chúng tôi cũng nhưng câu hỏi này mà lý giải một cách đơn cử cụ thể cho những bạn và quý phật tử đang thắ mắc về câu hỏi trên Chú đại bi ở việt nam ta và những nước theo tín ngưỡng Phật Giáo trên quốc tế là một thần chú vô cùng linh nghiệm được biến đến nhiều tên nhiều phiên bản, ở đây chúng tôi xin dùng từ “ CHÚ ĐẠI BI QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT ” để chỉ cho toàn bộ phiên bản từ 3 biến, 5 biến, 7 biến, 21 biến, 49 biến, cho đến 108 biến để xưng hô chung, vậy thì từ 3 biến đến 108 biến là gì ? Như đã đề cập ở trên, chú đại bi gồm có 84 câu chú tiếng việt và 415 chữ, việc những bạn đọc từ câu chú số 1 cho đến câu chú số 84 thì được tính là 1 biến, cho nên vì thế khi bạn tụng kinh chú đại bi 3 biến thì tất là bạn đọc 3 lần liên tục như vậy tổng số sẽ được 84 câu * 3 = 252 câu chú tương tự như chú đại bi từ 3-108 biến cũng vậy . CHÚ ĐẠI BI 5 BIẾN 84 câu * 5 = 420 tổng số câu chú sẽ phải đọc CHÚ ĐẠI BI 7 BIẾN 84 câu * 7 = 588 tổng số câu chú sẽ phải đọc CHÚ ĐẠI BI 9 BIẾN 84 câu * 9 = 756 tổng số câu chú sẽ phải đọc CHÚ ĐẠI BI 21 BIẾN 84 câu * 21 = 1764 tổng số câu chú sẽ phải đọc CHÚ ĐẠI BI 49 BIẾN 84 câu * 49 = 4116 tổng số câu chú sẽ phải đọc CHÚ ĐẠI BI 108 BIẾN 84 câu * 108 = 9072 tổng số câu chú sẽ phải đọc CHÚ ĐẠI BI PDF Để thuận tiện cho việc trì tụng chú đại bi tại nhà, hay đối với các phật tử ở xa không có điều kiện đến chùa tiếp xúc với kinh điển, ngày nay các phiên bản chú đại bi được các quý thầy và hàng cư sĩ up load trực tiếp lên các diễn đàn hay trên các trang web thông tin đại chúng như chú đại bi hoàng quý sơn, chú đại bi thích trí thoát, võ tá hân, đông quân, phương nghi, việc chúng ta khá đơn giản, chỉ cần lên trên google tìm và gõ từ ngữ chú đại bi pdf thì lập tức serp google sẽ trả về ngay những trang tìm kiếm liên quan và chúng ta chỉ cần vào download về hoặc đọc trực tiếp trên trang cũng được, rất thuận lợi CHÚ ĐẠI BI MP3 DOWNLOAD Đối với những phật tử khi đọc kinh chống chán, hay buồn ngủ hoặc gặp phải thực trạng đọc vài ba biến lại không kiên trì, hiểu được điều đó, thời nay những phiên bản chú đại bi tiếng việt mp3 và chú đại bi tiếng phạn mp3 được thu âm sẵn lời của những vị thầy giảng giải như hòa thượng tuyên hóa, thầy thích trí thoát theo những tiếp đoạn chú đại bi 3 biến, 5 biến, 7 biến và 49 biến Download chú đại bi về sau đó ta hoàn toàn có thể mở phát mọi nơi trong nhà và đọc theo mỗi ngày hoặc đơn thuần là để nơi thao tác để tất cả chúng ta hoàn toàn có thể dùng theo chiêu thức tu học nghe và đọc theo, đến một quy trình tiến độ tiếng kinh sẽ tự nhiên chuyển hóa thành ngôn từ trong chính thân tâm tất cả chúng ta từ đó việc chống chán trong quy trình đọc chú sẽ không còn nữa CHÚ ĐẠI BI TIẾNG HOA-TRUNG QUỐC BẰNG CHỮ 南無喝囉怛那哆囉夜耶.南無阿唎耶,婆盧羯帝爍缽囉耶.菩提薩埵婆耶. 摩訶薩埵婆耶.摩訶迦盧尼迦耶.唵,薩皤囉罰曳.數怛那怛寫.南無 悉吉慄埵伊蒙阿唎耶.婆盧吉帝室佛囉愣馱婆.南無那囉謹墀.醯利摩訶 皤哆沙咩. 薩婆阿他豆輸朋,阿逝孕,薩婆薩哆那摩婆薩哆,那摩婆伽,摩罰特豆. 怛姪他.唵,阿婆盧醯.盧迦帝.迦羅帝.夷醯唎.摩訶菩提薩埵, 薩婆薩婆.摩囉摩囉,摩醯摩醯唎馱孕.俱盧俱盧羯蒙.度盧度盧罰闍耶帝. 摩訶罰闍耶帝.陀囉陀囉.地唎尼.室佛囉耶. 遮囉遮囉.摩麼罰摩囉.穆帝隸.伊醯伊醯.室那室那.阿囉參佛囉舍利. 罰沙罰參.佛囉舍耶.呼嚧呼嚧摩囉.呼嚧呼嚧醯利.娑囉娑囉,悉唎悉唎. 蘇嚧蘇嚧. 菩提夜菩提夜.菩馱夜菩馱夜.彌帝唎夜.那囉謹墀.地利瑟尼那.波夜摩那 .娑婆訶.悉陀夜.娑婆訶.摩訶悉陀夜.娑婆訶.悉陀喻藝.室皤囉耶. 娑婆訶.那囉謹墀.娑婆訶.摩囉那囉.娑婆訶.悉囉僧阿穆佉耶,娑婆訶. 娑婆摩訶阿悉陀夜.娑婆訶. 者吉囉阿悉陀夜.娑婆訶.波陀摩羯悉陀夜.娑婆訶.那囉謹墀皤伽囉耶. 娑婆訶.摩婆利勝羯囉夜.娑婆訶.南無喝囉怛那哆囉夜耶,南無阿唎耶. 婆嚧吉帝.爍皤囉夜.娑婆訶.唵,悉殿都.漫多囉.跋陀耶,娑婆訶. CHÚ ĐẠI BI TIẾNG MẬT TÔNG-TÂY TẠNG-PALI ན༌མོ༌རཏྣ༌ཏྲ༌ཡཱ༌ཡ། Namo Ratna Trayāya Nam mô rát na tra da da ན༌མཿ༌ཨཱཪྱ༌ཛྙཱ༌ན༌ས༌ག༌ར། བཻ༌རོ༌ཙ༌ན༌བྻཱུ༌ཧ༌རཱ༌ཛཱ༌ཡ། ཏ༌ཐཱ༌ག༌ཏཱ༌ཡ། ཨརྷ༌ཏེ༌སམྱཀ༌སམྦུ༌དྡྷཱ༌ཡ། Namaḥ Ārya Jñāna Sāgara Vairocana Vyūha Rājāya Tathāgatāya Na ma ary da chana sagara vai rô ca na vy du ha ra cha da ta tha ga tà da ན༌མཿ༌སརྦ༌ཏ༌ཐཱ༌ག༌ཏ༌བྷྱཿ། ཨརྷཏེབྷྱཿ༌སམྱཀ༌སམྦུ༌དྡྷེ༌བྷྱཿ༌ Namah Sarva Tathagatebyah Arhatebhyaḥ Samyaksaṃbuddhe Byaḥ Nama sa va ta tha ga the by da ara ha te by da sa my a sa bu đa ན། མཿ༌ཨཱརྱ༌ཨ༌ཝ༌ལོ༌ཀི༌ཏེ༌ཤྭ༌རཱ༌ཡ། བོ༌དྷིི༌སཏྟྭ༌ཡ། མཧཱ༌ས༌ཏྟྭ༌ཡ། མཧཱ༌ཀ༌རུ༌ཎི༌ཀཱ༌ཡ། Namaḥ Arya Avalokite Śvarāya Boddhisattvāya Mahāsattvāya Mahākāruṇikāya Namo ary da ava lô ki tê sa va ra da bu đa hi sa va da ma ha sa ta vay a ma ha ka ru ni ka ya ཏདྱ༌ཐཱ། ༀ༌དྷ༌ར༌དྷ༌ར། Tadyathā Oṃ Dhara Dhara Dhiri Dhiri Tha da tha om da ha da ha hi ri hi ri དྷི༌རི༌དྷི༌རི། དྷུ༌རུ༌དྷུ༌རུ། ཨི༌ཊྚི༌ཝ༌ཊྚི། ཙ༌ལེ༌ཙ༌ལེ། པྲ༌ཙ༌ལེ༌པྲ༌ཙ༌ལེ། Dhuru Dhuru Ite Vatte Cale Cale Pra Cale Pra Cale Hu ru hu ru i tê va tê ca lê ca lê ra ca lê ra ca lê ཀུ༌སུ༌མེ༌ཀུ༌སུ༌མེ༌ཝ༌རེ། ཨི༌ལི༌མི༌ལི། ཙི༌ཏི༌ཛཱ༌ལ༌ཨ༌པ༌ན༌ཡེ༌སྭཱཧཱ ༎ Kusume Kusume Vare Ili Mili Citijvala Māpanāye Svāhā Ku su me ku su me va re hi mi li ci ti va la ma panna de sa ha 5. HƯỚNG DẪN CÁCH TRÌ CHÚ ĐẠI 84 CÂU DỄ THUỘC Việc tiên phong để trì chú đại bi, hàng phật tử tất cả chúng ta nên tắm gội thật sạch, thân tịnh 3 nghiệp tâm khẩu ý, ăn mặc ngăn nắp trang nghiêm là được tìm hiểu thêm cách ăn mặc tại đây . Chúng ta hoàn toàn có thể quỳ xuống trước bàn thờ cúng phật bà quan âm, hoặc di ảnh phật, bức tranh phật hoặc một tượng phật nhỏ so với những bạn sinh viên hoặc người đi thuê nhà v .. v Bước 1 Đọc theo câu niệm sau Con pháp anhnếu có xin thành tâm đãnh lễ mười phương chư vật 1 lạy Con xin quy y đãnh lễ chư vị Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Chư Tăng Ni 1 lạy Con xin cung kính thay mặt tất cả chúng sanh trong cõi ta bà đãnh lễ 1 lạy Bước 2 Chúng ta đọc theo 84 câu chú đại bi tiếng việt ở trên Bước 3 Hồi Hướng Chúng ta nghĩ đến những đến chúng sanh những người thân trong gia đình hoặc chính tất cả chúng ta đang cần thần chú đại bi trợ giúp mà hồi hướng công đức, để đêm công đức trì tụng chú đại bi gia trì cho họ hoặc tất cả chúng ta được được thanh tâm an nhàn và những nguyện ước như việc làm, chữa bệnh được mau chóng toại lòng Các bài viết xem thêm
Thần Chú ại bi lại có thể trị tám vạn bốn ngàn loại tật bệnh của thế gian. Ai bị bệnh nan y, cho đến các y sĩ, Tây y hay ông y phải bó tay, nhưng nếu thành tâm trì tụng ại-bi Chú cũng nhất định chẳng uống thuốc mà được khỏi bệnh. XEM KINH VỚI LÒNG THÀNH Kẻ hậu học khi xem kinh, nên có tâm thái như sau ba nghiệp tâm, khẩu, ý phải được thanh tịnh. Ba nghiệp trên được lắng trong thì phước huệ tròn đầy. 1. Nên thẳng mình ngồi ngay như ngồi trước đức Phật. Đó là thân nghiệp được thanh tịnh. 2. Miệng không nói lời sai trái, không cười đùa. Đó là khẩu nghiệp được thanh tịnh. 3. ý không tán loạn, dứt sạch tâm phan duyên. Đó là thanh tịnh ý nghiệp. Khi tâm an tịnh thì ngoại cảnh lắng trong, đó là khế ngộ nguồn tâm, diệu nhập pháp lý. Khi nước lắng trong thì vẻ sáng của ngọc tự chiếu soi, mây tan trăng tự hiển bày, đại nguyện thành tựu cũng như nhập vào biển diệu nghĩa. Thấu đạt ý kinh cũng chính là đến được đỉnh núi cao trí tuệ. Nếu hành giả muốn dễ thành tựu, phải gieo trồng Đại nguyện. Khi tâm, pháp đều quên, thì mình cùng pháp giới chúng sinh đều chung lợi lạc. Có được như thế mới mong báo đáp ân sâu của Chư Phật. Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni 1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da 2. Nam mô a rị da 3. Bà lô yết đế thước bát ra da 4. Bồ Đề tát đỏa bà da 5. Ma ha tát đỏa bà da 6. Ma ha ca lô ni ca da 7. Án 8. Tát bàn ra phạt duệ 9. Số đát na đát tỏa mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà mô na ra cẩn trì rị, ma ha bàn đa sa mế bà a tha đậu du bằng thệ dựng bà tát đa ma bà dà phạt đạt đậu đát điệt tha A bà lô hê ca đế ra đế hê rị ha bồ đề tát đỏa bà tát bà ra ma ra hê ma hê rị đà dựng lô cu lô yết mông lô đồ lô phạt xà da đế ha phạt xà da đế ra đà ra rị ni Phật ra da ra giá ra mạ phạt ma ra đế lệ hê di hê na thất na a 38 Ra sâm Phật ra xá lợi sa phạt sâm ra xá da lô hô lô ma ra lô hô lô hê rị ra ta ra rị tất rị rô tô rô Đề dạ Bồ Đề dạ đà dạ bồ đà dạ đế rị dạ ra cẩn trì rị sắc ni na dạ ma na bà ha đà dạ bà ha ha tất đà dạ bà ha đà dũ nghệ bàn ra dạ bà ha ra cẩn trì bà ha ra na ra bà ha ra tăng a mục khê da bà ha bà ma ha a tất đà dạ bà ha kiết ra a tất đà dạ bà ha đà ma kiết tất đà dạ bà ha ra cẩn trì bàn đà ra dạ bà ha bà rị thắng yết ra dạ bà ha mô hắc ra đát na đa ra dạ da mô a rị da lô kiết đế bàn ra dạ bà ha Tất điện đô đà ra đà gia bà ha. Nam Mô Quan Thê Âm Bô Tát Tên của bài kinh này là Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni của Phật Quán Thế Âm. Gọi tắt là Chú Đai Bi. Chú Đại Bi có thảy là 84 câu, 415 chữ. Cách thức tụng đọc Chú Đại Bi phải nên được trì tụng lớn tiếng, giọng điệu trầm hùng, nhanh và liên tục bằng cách lấy hơi từ bụng ra. Lớn tiếng ở đây không có nghĩa là ta phải la lớn lên, nhưng giọng đọc phải rõ ràng, nghe đủ tiếng, không lờ mờ, trại giọng. Kinh “Nghiệp Báo Sai Biệt” cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn tiếng có mười công đức sau đây được sự buồn ngủ ám ảnh ma hoảng sợ. vang khắp mười phương đường hết khổ đời chẳng lọt vào tai không tán loạn mãnh tinh tấn Phật vui mừng muội hiện ra trước mắt sanh Tịnh Độ Thật sự, ta cũng sẽ không lo ngại cơn buồn ngủ ám ảnh. Bởi vì khi trì tụng chú Đại Bi, các vị Thiên, Long, Hộ Pháp sẽ luôn ở bên cạnh ta, khi ta rơi vào cơn buồn ngủ, các Ngài sẽ giúp đánh thức ta -mà rồi qúy vị sẽ chứng nghiệm khi thực hành trì chú một cách nghiêm túc- bằng một âm thanh như tiếng sấm nổ ở trong đầu khiến ta hoảng hồn, giật mình tỉnh thức. Thông thường sau đó ta sẽ không còn hoặc không dám buồn ngủ nữa. Tuy nhiên, nếu việc này xảy ra một lần thứ hai trong buổi hành Thiền, điều này có nghĩa là thể xác ta quá mỏi mệt, ta nên xin phép được xả thiền để nghỉ ngơi. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt phải tụng thầm chỉ riêng cho mình nghe, hoặc chỉ nhép môi không ra tiếng như khi chúng ta đang làm việc, đi chung xe tàu với người khác, hoặc đi nằm trước khi ngủ. Nói đến Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thì ít người Phật tử nào không nghe biết đến bài Thần Chú Đại Bi mầu nhiệm, vì bài Thần Chú này là của Ngài nói ra. Sau đây là vài bài nói về sự xuất xứ, mầu nhiệm, tu trì, ích lợi và cách thức trì tụng bài Thần Chú này để được hiệu nghiệm. Mong rằng có những ai hành trì theo đều sẽ được lợi lạc và có những bước tiến trên đường tu tập. KHAI THỊ QUYỂN 4 - HÒA THƯỢNG TUYÊN HOÁ THẦN CHÚ ĐẠI BI NHIỆM MẦU KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN Hôm nay bắt đầu vào thất ại Bi. Buổi tối sau lễ sái tịnh sẽ tụng ại Bi Thần Chú. Trong quá khứ, số chư Phật nói chú này nhiều bằng chín mươi chín ức số cát sông Hằng và Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát vì thương hết thảy mọi loài chúng sanh, nên phát tâm đại bi, cưỡi thuyền từ bi trở về cõi Ta-bà để cứu độ tất cả chúng sanh ra khỏi cảnh khổ ách. Có câu "Bể khổ không bờ, quay đầu là bến," chỉ cần chúng ta kiền thành trì tụng ại-bi Chú ắt sẽ thấy ứng nghiệm, không thể nghĩ bàn. Trước đây trong vô lượng kiếp, Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát được Thiên Quang Vương Tĩnh Trú Như-lai diễn pháp ại-bi Thần Chú cho nghe, lấy bàn tay sắc vàng xoa đầu, khiến Ngài, khi nghe xong liền chứng được quả vị Bồ-tát bậc Bát-địa. Ngài liền sanh tâm đại hoan hỷ rồi lập tức phát nguyện lớn như sau "Nếu tôi có thể làm lợi ích hết thảy chúng sanh, thì xin cho tôi có ngay ngàn tay và ngàn mắt." Phát nguyện xong, hốt nhiên trái đất chấn động, hào quang phát ra từ chư Phật mười phương chiếu sáng thân Ngài, rồi ngàn tay và ngàn mắt tức khắc trang nghiêm thân tướng của Ngài. Tay thì có thể nâng đỡ, mắt thì có khả năng chiếu soi. Ngàn tay và ngàn mắt tượng trưng cho vô số thần thông và trí huệ. Ý nghĩa của đại bi Căn cứ câu "Bi năng bạt khổ," bất cứ ai gặp phải mọi cảnh khổ nạn, nếu thành tâm tụng Chú ại-bi đều có thể được bình an, chuyển hung thành cát. Ngài Quán Thế Âm bạch Phật rằng "Nếu như chúng sanh trì tụng ại-bi Chú mà không được mãn nguyện, thì xin thề không thành chánh giác, trừ phi nguyện ước của họ bất thiện hay không thành tâm trì tụng." Trì tụng ại-bi Chú không những được tự tại, mà các điều cầu mong còn được thành tựu; có thể tránh được khổ ách tai nạn và được vui sướng an lạc; vượt qua mọi hiểm nghèo, tới chỗ bình an vô sự. Làm sao có thể xa lìa khổ ách? Phải tụng ại-bi Chú. Làm sao thoát khỏi hiểm nghèo? Phải trì tụng ại-bi Chú. Chớ có coi ại-bi Chú là tầm thường hay đơn giản. Tôi xin nói với quý vị rằng nếu quả trong đời quá khứ và hiện tại quý vị không có căn duyên tốt lành thì ngay đến cả cái tên của Chú ại-bi cũng chưa được nghe, đừng nói tới việc trì tụng. Nay không những quý vị được nghe biết tên của Chú lại còn được trì tụng Chú với một lòng chí thành như vậy, thật là một cơ hội trăm ngàn vạn kiếp mới có một lần, rồi lại được thiện tri thức chỉ dẫn, cách thức đọc tụng, thọ trì, tu trì nữa. Thật đáng cho quý vị coi trọng! Tóm lại, ại-bi Chú có những lợi ích không thể nghĩ hết được. Trong thời gian bẩy ngày này, chúng ta nên thành tâm thành ý, rất mực cung cung kính kính trì tụng Chú ại-bi, tụng cho tới độ tâm không vọng tưởng. Lúc đó, lòng lắng trong, hoặc giả có người thấy hào quang, có người thấy hoa xuất hiện, có người được Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát rờ đầu, giúp cho khai mở trí huệ. Hoặc giả có khi ngửi thấy mùi hương lạ, cũng có người dù đã tha thiết chí thành trì tụng, nhưng cũng chẳng thấy một hiện tượng gì khác lạ. Dầu có hay không cũng chớ có nản lòng, cứ hết sức dốc một lòng trì tụng. Khi nào thời khắc tới, sẽ nhất định chứng kiến cảnh giới "cảm ứng đạo giao," xuất hiện ngay trước mắt. Bất luận thấy cảnh giới nào, hay chẳng thấy gì hết, việc chánh vẫn là tinh tấn trì tụng. Kẻ thấy điềm lành chẳng nên chấp vào tướng lành đó. Kẻ không thấy điềm gì cũng đừng sanh lòng tự ti mà tự bảo rằng "A ! Vậy là ta chẳng có thiện căn, sao ta chẳng thấy Bồ-tát?" Thiện căn có khi sớm kết thành quả, có khi thì muộn. Nếu như có cảm giác thiện căn của mình chưa đến lúc thành thục, thì ta phải tiếp tục bồi đắp, làm thêm nhiều công đức nữa mới được. Người ta nói "Chưa trồng căn lành, phải trồng căn lành; đã trồng căn lành, khiến nó tăng trưởng; đã tăng trưởng rồi, khiến nó thành thục; đã thành thục rồi, khiến tới giải thoát." Quý vị lần đầu tới Kim Sơn Thánh Tự, nghiên cứu Phật pháp, tu tập Phật pháp, phải dốc lòng thành học tập, không ngại khổ, không ngại khó. Ở đây trong vòng bảy ngày, nên dũng mãnh tinh tấn, xa lìa vọng tưởng. Nếu lại vừa học tập, vừa nghĩ ngợi lung tung, công phu không thể chuyên nhất được. Tâm không chuyên nhất thì khó lòng sanh cảm là một điều, quý vị phải đặc biệt chú ý! Những lợi ích của công phu trì tụng ại-bi Chú, nói ra không thể hết được. Phàm ai đã trì tụng ại-bi Chú thì tuyệt đối chẳng bị đọa vào ba đường ác. Nếu bị đọa vào các đường ác đó thì Ngài Quán Thế Âm nguyện chẳng bao giờ thành Phật. Phàm ai ngu si mà trì tụng ại-bi Chú, nếu chẳng biến thành kẻ trí huệ, Ngài Quán Thế Âm cũng nguyện chẳng thành Phật. Thần Chú ại-bi lại có thể trị tám vạn bốn ngàn loại tật bệnh của thế gian. Ai bị bệnh nan y, cho đến các y sĩ, Tây y hay ông y phải bó tay, nhưng nếu thành tâm trì tụng ại-bi Chú cũng nhất định chẳng uống thuốc mà được khỏi bệnh. Thần hiệu của ại-bi Chú thật không thể nghĩ bàn! Tại Kim Sơn Thánh Tự có người đã từng được sự ứng nghiệm như vậy. Chữa trị chứng ung thư chẳng phải là chuyện dễ dàng, vậy mà trì tụng ại-bi Chú khiến cho bệnh tiêu tan. Thần lực của Chú ại-bi thật mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Chỉ cần xem công phu của quý vị trong bảy ngày ra sao, ai thành tâm, người đó sẽ thấy ứng nghiệm, được lợi ích. Ai có bệnh, bệnh sẽ lui. Ai không bệnh, thì trí huệ được khai mở. Cầu chuyện gì được chuyện đó, cho nên ại-bi Chú gọi là bất khả tư nghì quảng đại linh cảm, vô ngại đại bi tâm đà-la-ni. Chữ đà-la-ni Dharani dịch nghĩa là tổng trì, tổng nhất thiết pháp, trì vô lượng nghĩa, cũng gọi là chú, hoặc gọi là chân ngôn. Tóm lại đó là những chữ mật. Mật chú gồm có bốn ý nghĩa sau Trong bài chú có tên vua các loài quỷ thần, nên phàm tiểu quỷ nghe đến tên này thì không dám làm bậy và phải tôn trọng phép tắc, Chú được coi như khẩu lệnh trong quân đội, nếu vi phạm ắt sẽ bị trừng trị, Chú có thể âm thầm tiêu trừ nghiệp tội mà chính mình không hay biết, Chú là ngôn ngữ bí mật của chư Phật, chỉ có chư Phật mới hiểu được mà thôi. Quý vị lần này tới tham dự pháp hội ại-bi, đều có sẵn căn lành cả, đức hạnh đầy đủ lại được nhân duyên thành thục nên mới tới Chùa Kim Sơn Tự. Hy vọng rằng một khi đã vào tới "bảo sơn" rồi thì không đến nỗi tay không trở về, tất phải được bảo vật để dùng cho mình. Bảo vật gì? Chính là Chú ại-bi. ại-bi Chú có thể trị bệnh, có thể hàng phục loài ma, có thể khai mở trí huệ, có thể mang lại sự bình an, hay nói cách khác, cầu việc gì được việc ấy, nhất định toại lòng xứng ý. Kỳ pháp hội ại-bi này còn đặc biệt hơn nữa là tại Trung-quốc rất hiếm có khóa tụng ại-bi có tính cách kỷ lục, kéo dài cả bẩy ngày luôn như vậy. Tại các nước khác người ta có niệm Chú ại-bi trong bẩy ngày không, điều này tôi không biết, nhưng tại Mỹ, tôi nghĩ rằng đây là lần đầu tiên. Mong tất cả quý vị hết sức chân thành trì tụng ại-bi Chú, công đức vô lượng!Hòa thượng Thích Tuyên Hóa giảng giải - THẦN CHÚ ĐẠI BI Viên Ngọc của Người Cùng Tử. Cửa Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, một người học Phật dù cố gắng hành trì, tu tập trãi qua hằng hà sa số kiếp cũng không dễ gì có thể lãnh hội hết tất cả nội dung phong phú đó huống là chỉ một đời người. Cho nên, tùy theo căn cơ, duyên nghiệp, một khi đã phát tâm đi vào con đường giải thoát, hành giả hoặc nhờ phước duyên được chư Phật, chư Bồ Tát độ trì dẫn dắt, hoặc do minh sư chỉ bảo, mỗi người cần nên tự chọn cho mình một pháp môn để tu tập. Có rất nhiều pháp môn tu học phổ biến trong đại chúng hiện nay như Tịnh Độ, Mật Tông, Thiền Định... Pháp môn tuy có thể khác nhau, nhưng một khi đã tự xem mình là trưởng tử của Như Lai, hạnh nguyện của mỗi hành giả đều giống nhau, đó là noi theo ánh sáng của chư Phật, quyết tâm xé bỏ bức màn vô minh, đạp qua nẽo luân hồi sinh tử để đi vào con đường giải thoát, tiến đến đạo qủa bồ đề, hầu mang lại an vui, phúc lợi không những cho riêng mình mà còn cho toàn thể chúng sanh. "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ", đó là tâm nguyện chung của một người mang hạnh nguyện Bồ tát vào đời, dù khoác trên mình chiếc áo tăng sĩ hay hàng tại gia cư sĩ. Nhưng một người dù có thiện tâm, hảo ý đến bao nhiêu mà không có khả năng thực hiện được ý nguyện của mình thì thiện tâm hảo ý cũng trở thành vô ích. Như một người trông thấy kẻ bị nạn sắp chết đuối dưới dòng nước chảy xiết, nhảy xuống định cứu, thế nhưng bản thân mình lại không biết lội, chẳng những đã không cứu được người, vừa thiệt thân mạng mình một cách vô ích, lại còn gây trở ngại thêm cho công tác cứu hộ. Cho nên, muốn độ người trước hết phải độ ta, có nghĩa là phải xét xem ta có đủ khả năng, tư cách để độ người hay không? Muốn thế mỗi người phải luôn tích cực, tinh tấn tu tập không ngừng nghỉ mới có thể từng bước tiến dần đến ánh sáng giác ngộ. Có thể nói một cách khẳng định rằng, để đạt được cứu cánh giác ngộ không có con đường tu tập nào khác hơn ngoài con đường Thiền định. Chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ cũng đều đã phải trãi qua con đường đó. Chính Đức Thế Tôn đã từng nhấn mạnh đến lợi ích quan trọng của thiền định "Thiền định là phương tiện duy nhất để thanh tịnh nội tâm, tiêu trừ phiền não." Samyutta, 1613 - Tạp A Hàm, và chính Ngài cũng đã trải qua 49 ngày đêm thiền định rốt ráo trước khi chứng đạt được đạo quả bồ đề. Chúng ta, những người học Phật, dĩ nhiên cũng không có một lựa chọn nào khác hơn. Tuy nhiên, một vấn nạn lớn đặt ra cho những người mới tập tểnh bước chân vào cửa Thiền, là làm sao tìm ra cho mình một phương pháp thích ứng để con đường tu chứng của mình mau đạt được kết quả mà không bị lạc lối trong rừng Thiền mênh mông, chẳng những đã không đạt được cứu cánh giác ngộ mà đôi khi lại còn có thể bị rơi vào con đường ma đạo. Muốn học đạo phải tìm thầy. Có rất nhiều minh sư ở khắp mọi nơi để Phật tử có thể tìm đến tham cầu, nhưng nếu vì một lý do nào đó mà hành giả không có cơ duyên hay phương tiện để gặp gỡ họ, hôm nay chúng tôi sẽ xin giúp hướng dẫn qúy vị đến gặp một vị Đại minh sư, một "Người" rất quen, luôn luôn gần gũi bên cạnh chúng ta, luôn luôn lắng nghe những lời khẩn cầu của chúng ta với tất cả sự quan tâm và tấm lòng thương yêu rộng lớn để saün sàng giúp đỡ mà không cần đòi hỏi một điều kiện thù đáp nào. Vị minh sư đó không ai khác hơn là Đức Bồ Tát Quán Thế Âm và với phương tiện thiện xão của Ngài, thần chú "Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni", sẽ giúp đỡ cho bất cứ ai khi trì tụng Thần chú này đúng phương pháp chắc chắn sẽ mau chóng bước chân vào cõi Thiền, cũng như đạt được mọi điều sở nguyện. Như người cùng tử, suốt một đời rong ruổi ngược xuôi, đến khi mang chiếc thân tàn trở về lại ngôi nhà cũ của Cha mình mới khám phá ra viên ngọc vô giá trong chiếc áo rách nát tả tơi theo năm tháng mà ngày xưa người cha vì lòng yêu thương đã khâu vào trước khi đứa con bỏ nhà đi hoang. Thần chú Đại Bi, chính là viên ngọc vô giá đó và hôm nay, như người cùng tử năm xưa, chúng ta bất ngờ khám phá lại kho tàng không những sẽ làm giàu có, phong phú cho tâm hồn đang khô kiệt của chúng ta, mà còn là chiếc chìa khóa mở cho ta vào cánh cửa thênh thang của đạo quả giác ngộ, vô thượng bồ đề. 1. Lý Do Ra Đời Của Thần Chú và Phát Nguyện Của Bồ Tát Quán Thế Âm Thần Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói trong một pháp hội trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma-Ha Ca-Diếp, A-Nan... cùng câu hội, tại núi Bồ Đà Lạc Ca Potalaka, một hải đảo ở về phía Nam xứ Ấn Độ, được coi như là nơi mà Đức Bồ Tát Quán Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể tin chắc điều đó bởi vì Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan "Như thế tôi nghe" cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa ngài A Nan và Đức Thế Tôn đã được ghi lại ở trong kinh. Trong pháp hội này, Bồ Tát Quán Thế Âm vì tâm đại bi đối với chúng sanh, muốn cho "chúng sanh được an vui, được trừ tất cả các bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng công đức của pháp lành, được thành tựu tất cả các thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu" mà nói ra Thần Chú này. Ngài cho biết lý do ra đời của Thần Chú như sau Vào vô lượng ức kiếp về trước, Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tâm thương tưởng đến chúng sanh nên đã nói ra thần chú Đại Bi và khuyến khích Bồ Tát Quán Thế Âm nên thọ trì tâm chú này để mang đến lợi ích an vui lớn cho chúng sanh trong đời vị lai. Bồ Tát Quán Thế Âm lúc bấy giờ mới ở ngôi sơ địa khi nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Vui mừng trước oai lực của thần chú, Ngài bèn phát đại nguyện "Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt ngàn tay". Lập tức, Ngài thành tựu ý nguyện. Từ đó, hình ảnh của vị Bồ Tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt trở thành một biểu tượng cho khả năng siêu tuyệt của một vị Bồ Tát mang sứ mệnh vào đời cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh. Ngàn tay, ngàn mắt nói lên cái khả năng biến hóa tự tại, cái dụng tướng vô biên của thần lực Từ bi và Trí huệ tỏa khắp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngàn mắt để có thể chiếu soi vào tất cả mọi cảnh giới khổ đau của nhân loại và ngàn tay để cứu vớt, nâng đỡ, như Đức Phật giải thích với Ngài A Nan ở trong kinh, "tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh". Kinh và Thần chú Đại Bi sau đó đã được ngài Dà-Phạm-Đạt-Ma Bhagavaddharma có nghĩa là Tôn Pháp một Thiền sư Ấn Độ, du hóa qua Trung Quốc vào niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường dịch và chuyển âm từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa và được Hoà Thượng Thích Thiền Tâm chuyển ngữ qua tiếng Việt. Với oai lực và linh nghiệm đã được chứng minh qua không gian và thời gian, thần chú Đại Bi đã được trân trọng trì tụng trong các khoá lễ, các nghi thức tụng niệm chính của các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Đại thừa như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,... 2. Công Năng, Oai Lực của Thần Chú Đại Bi. Muốn biết công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi, ta nên tìm hiểu xem mục đích, hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm khi Ngài ban phát thần chú này. Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát nguyện rằng Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, không được sanh về các cõi Phật, không được vô lượng tam muội biện tài, Ngài thề sẽ không thành chánh giác. Ngài còn nhấn mạnh Nếu trì tụng thần chú Đại Bi, mà tất cả những mong cầu trong đời hiện tại nếu không được vừa ý, thì thần chú này sẽ không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngoại trừ những kẻ mong cầu những điều bất thiện hoặc tâm không được chí thành. Hơn thế nữa, Bồ Tát còn cho ta biết ngay cả đối với những kẻ phạm những tội ác nghiệp nặng nề như thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh nếu trì tụng thần chú Đại Bi thảy đều được tiêu trừ. Vì sao thế? Kinh Đại Bi cho biết mỗi lần hành giả trì tụng thần chú này, tất cả mười phương chư Phật đều đến chứng minh, cho nên tất cả các tội chướng nhờ ân đức của chư Phật độ trì, thảy đều tiêu diệt. Oai lực lớn lao của Thần Chú đã được chính Đức Thế Tôn giảng rõ trong Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni -"Ngài A Nan bạch Phật rằng Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào? - Đức Phật bảo Thần chú này có những tên gọi như sau Quảng Đại Viên Mãn Đà-Ra-Ni Vô Ngại Đại Bi Đà-Ra-Ni Cứu Khổ Đà-Ra-Ni Diên-Thọ Đà-Ra-Ni Diệt-Ác-Thú Đà-Ra-Ni Phá Ác-Nghiệp-Chướng Đà-Ra-Ni Mãn-Nguyện Đà-Ra-Ni Tuỳ-Tâm Tự-Tại Đà-Ra-Ni Tốc Siêu Thượng Địa Đà-Ra-Ni." Từ lời dạy trên của Đức Phật với ngài A Nan, chúng ta hiểu được những công năng chính của thần chú Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên, không có gì có khả năng ngăn ngại nỗi. Trong cõi dục giới này, con người đâu có mong cầu điều gì hơn ngoài an lạc, hạnh phúc và sống lâu. Thần chú Đại Bi sẽ giúp mọi người đạt được những ước muốn này như Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa. Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình rơi vào con đường cùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh phúc. Tuy nhiên, để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi trì tụng ta phải tự mình quán chiếu tại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người khác lại không, và tại sao Thần chú lại có công năng cứu khổ? Giáo lý của nhà Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việc trên cỏi đời này không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả những đau thương bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống hiện tại gông cùm tù tội, bệnh hoạn, nghèo hèn,... là kết quả của những ác nghiệp mà ta đã gây nên từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả. Sở dĩ Thần chú Đại Bi có khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn vì công năng siêu tuyệt của nó là Phá Ác Nghiệp Chướng như đã nói ở trên. Thần chú này còn có tên gọi là Diệät Ác Thú. Nghe đến công năng này, một người saün mang tâm từ bi tất sẽ không khỏi sinh lòng nghi ngại. Ta đang trì tụng Thần chú Đại Bi vì phát khởi tâm Đại Từ Bi, nghĩa là yêu thương muôn loài không phân biệt thì tại sao lại phải Diệt Ác Thú trong khi ác thú cũng là một loại chúng sanh cần được thương yêu, cứu vớt? Tuy nhiên, muốn hiểu rõ công năng này, trước tiên ta hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh sống của những cư dân ở những chốn rừng thẳm, non cao, đặc biệt là những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới như Ấn Độ, nơi đầy dẫy những ác thú như hùm, beo, rắn rết... luôn luôn là một mối đe dọa lớn cho sinh mạng con người. Không phải từ thời Đức Phật còn tại thế mà ngay cả đến bây giờ, hàng năm đã có một số lượng lớn người bị mất mạng vì ác thú, vì thế để cho ác thú khỏi xâm phạm ta, Bồ Tát đã cho ta thần chú Đại Bi, không có nghĩa là mỗi khi gặp chúng, hành giả đọc thần chú này lên thì tất cả ác thú đều ngả lăn ra chết, mà phải nên hiểu rằng, đối với một người hành trì thần chú Đại Bi hằng ngày một cách nghiêm túc, bên cạnh oai lực che chở hộ trì của chư thần, long, thiên, hộ pháp, ở người trì chú cũng tự động phát ra một nguồn năng lực mà không phải chỉ riêng đối với ác thú, ngay cả các loài độc trùng khác cũng đều phải lánh xa. Tuy nhiên, đối với người quyết chí dấn bước trên con đường tu học, hai công năng quan trọng nhất của Thần chú Đại Bi là tùy tâm tự tại và tốc siêu thượng địa. Ta đang gặp khó khăn trong Thiền định, tâm ta loạn động không an trụ, thần trí ta hoang mang hoảng hốt không thể nào tập trung được vào việc hành thiền, từ trước đến nay ta đã tìm thử đủ mọi phương pháp mà vẫn không kết quả, thì nay Thần chú Đại Bi sẽ là một phương tiện hiệu quả giúp ta an tâm, giải phóng tâm thức ta ra khỏi những vọng động, âu lo của cuộc sống thường nhật, chắc chắn đưa ta bước vào cảnh giới thiền một cách mau chóng và rốt ráo, rồi từ đó Thần chú sẽ giúp ta thăng tiến mau chóng vào những nấc thang thiền kế tiếp, vấn đề nhanh hay chậm là do duyên nghiệp của mỗi cá nhân, tuy nhiên kết quả là chắc chắn, vì trong Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ mới nghe qua Thần chú này một lần, đã nhanh chóng chứng quả từ ngôi sơ địa lên ngôi bát địa. Vì những lý do trên mà thần chú này có tên gọi là Quảng-Đại Viên-Mãn Vô-Ngại Đại-Bi-Tâm Đà-Ra-Ni. Bởi vậy, Phật tử không nên khinh xuất khi trì tụng chú Đại Bi mà phải tinh tấn và chí thành, cung kính, giữ đúng lễ nghi. Tin tưởng vào lòng thương yêu chúng sanh và khả năng hộ trì của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành giả có thể hành trì Thần chú Đại Bi như là phương tiện chính của Thiền định trong khả năng tập trung năng lực cũng như thiền quán hầu đạt đến an lạc hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày và từng bước tiến đến cứu cánh giải thoát, giác ngộ. 3. Hình Trạng, Tướng Mạo của Đại Bi Thần Chú Mười Đặc Tính của Đại Bi Tâm. Ta đang trì tụng Đại Bi Thần Chú. Vậy trước tiên ta cũng nên biết Chú là gì? Đại Bi Thần Chú liên hệ như thế nào đến Mật Tông? Chú còn được biết dưới những tên gọi khác là Thần Chú, Chân Ngôn hay Mật ngôn, tiếng Phạn là Đà La Ni Dhàrani, tức là những câu nói bí mật của chư Phật, chư Bồ Tát. Những mật ngôn này đối với phái Mật Tông được sử dụng như là những mật mã để chuyển âm những lời cầu nguyện của người hành trì đến với chư Phật, chư Bồ Tát trong khắp mười phương và được các ngài mau chóng cảm nhận để giúp đỡ hộ trì. Đà La Ni được dịch qua tiếng Trung Hoa có nghĩa là Tổng Trì, tức là một loại thần lực có năng lực thâu nhiếp cùng bảo trì tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian không cho các thiện pháp bị tán loạn và ngăn che các ác pháp không cho phát sanh. Tuy thần chú là những lời nói nhiệm mầu, bí mật của chư Phật, chư Bồ Tát ta khó thể lãnh hội được nội dung, ý nghĩa nhưng điều này không có nghĩa là khi trì tụng Thần chú Đại Bi ta chỉ đọc tụng lên một cách máy móc. Một khi đã biết được công năng và oai lực của Thần chú Đại Bi sẽ giúp ta hiểu được tướng mạo của Thần Chú Đại Bi, hay nói một cách rõ ràng hơn, đặc tính của Đại Bi Tâm. Những đặc tính này đã được Bồ Tát Quán Thế Âm giải thích rõ ở trong kinh khi đáp lại lời thỉnh cầu của vua trời Đại Phạm Thiên Vương, đó là Tâm Đại Từ Bi Tâm Bình Đẳng Tâm Vô Vi Tâm Chẳng Nhiễm Trước Tâm Không Quán Tâm Cung Kính Tâm Khiêm Nhường Tâm không Tạp Loạn Tâm Không Chấp Giữ Tâm Vô Thượng Bồ Đề Tâm là đối tượng của Thiền định. An tâm hay định tâm là mục tiêu của hành giả khi hànhThiền. Trong những giai thoại liên quan đến Thiền học chắc chắn ta đã từng được nghe hơn một lần những mẫu chuyện liên quan đến đề tài này. Câu chuyện "an tâm" giữa Bồ Đề Đạt Ma và Tổ Huệ Khả là một thí dụ nổi tiếng. Hành giả tu tập thiền định có thể nương vào thần lực của Thần Chú Đại Bi, như là một phương tiện để định tâm và do khả năng chuyên chở mầu nhiệm của những âm thanh vi diệu này, hoà nhập vào bản thể của chân tâm, đạt đến cứu cánh giải thoát, niết bàn. Chân tâm là Phật tánh, vốn thường hằng, hiện hữu trong mỗi chúng sanh. Ta không thấy được chân tâm của mình vì vô minh, vì tội ác, nghiệp chướng như rong rêu tích tụ từ hằng hà sa số kiếp đang bao phủ nó. Bồ Tát Quán Thế Âm hằng thương yêu lo lắng cho chúng sanh đã giúp ta phương tiện diệu dụng là Thần chú Đại Bi, như chỉ cho ta một con đường tắt để hành trì tu tập, mau chóng tiến đến niết bàn. Trì tụng Thần chú Đại Bi chắc chắn sẽ làm vỡ ra những mảng tội ác, nghiệp chướng đã đeo đẳng, dính cứng vào thân ta từ bao đời, oai lực của nó sẽ như ngọn đuốc bùng lên giữa đêm dài vô minh tăm tối, làm bừng sáng, tỏ ngộ chân tâm. Mỗi tướng mạo của Thần Chú Đại Bi vì thế có thể là một đề mục lớn về Thiền quán cho hành giả suy gẫm trong khi hành thiền đồng thời là một mục tiêu để vươn tới trong hành trì tu tập. Xuyên suốt và bao trùm lên tất cả là Tâm Đại Từ Bi, tức là tâm thương xót và ý hướng, quyết tâm cứu khổ. Khởi tụng thần chú Đại Bi cũng có nghĩa là khởi phát lòng thương xót đến tất cả chúng sanh. Trong cuộc sống đấùu tranh đầy khắc nghiệt để sống còn, khi "con người là chó sói của người", bất hạnh của kẻ khác đôi khi mang lại lợi lạc cho chính ta, lòng từ của con người đã bị thui chột. Nhưng nếu quả thật nhân loại cần tình thương như một chất liệu để nuôi dưỡng đời sống và để thăng hoa, Thần Chú Đại Bi chắc chắn sẽ là dòng nước cam lồ tưới lên cành cây khô thui chột, và từ đó hạt giống từ bi sẽ nẩy mầm trong mỗi chúng ta. Mối liên hệ giữa Từ Bi và Trí Tuệ là một mối liên hệ duyên khởi. Thành tựu Tâm Đại Bi là điều kiện để phát sinh Trí Tuệ Bát Nhã, và Tâm Bình Đẳng tức Tâm "Vô phân biệt trí"cũng từ đó phát sinh. Tâm bình đẳng tức là tâm không phân biệt trong nhận thức và đối xử đối với chúng sanh. Không còn thân, không còn sơ, không còn màu da, chủng tộc, phái tính, không còn nghèo giàu sang hèn, không còn loài này và loài khác, chư thiên, trời, người, súc sanh, ngã quỹ... tất cả đều bình đẳng, đều là đối tượng được thương yêu và cứu trợ khi cần thiết, bởi vì tất cả đều mang Phật tánh, đều là những vị Phật tương lai. Với Tâm Bình đẳng phát triển, mỗi hành giả sẽ là một hiện thân của Bồ Tát Thường Bất Khinh với đầy đủ tâm cung kính, tâm khiêm nhường trong cung cách sống và cư xử với mọi loại chúng sanh. Có thể xem Tâm Đại Từ Bi, Tâm Bình Đẳng là hành trang cần thiết để đi vào Tâm Không quán. Thực hiện Tâm không quán tức là bước đầu đi vào triết học tánh Không của đạo Phật, là bắt đầu bước vào cửa ngỏ "Vô Môn Quan", thấy được chân như, tự tánh. Có thể coi Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một diễn giải đầy đủ ý nghĩa của Tâm không quán "Quán Tự Tại Bồ Tát -một tên gọi khác của Bồ Tát Quán Thế Âm- hành thâm Bát Nhã, thường chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách" Bồ Tát Quán Thế Âm khi chứng được Trí Tuệ thâm sâu, Ngài thấy vũ trụ muôn sanh kết hợp trên dòng sông năm uẩn. Các pháp đều do nhân duyên sanh, không có tự tánh, không có sanh diệt, không có thêm bớt, không có tạo tác. Nhờ vậy Đức Quán Thế Âm thoát ra khỏi mọi khổ đau, ách nạn. Tâm Không quán vì thế cũng bao gồm cả Tâm không nhiễm trước, Tâm không tạp loạn, Tâm không chấp giữ, tức là thực chứng Trí Tuệ Bát Nhã để từ đây hành giả saün sàng tiến thêm một bước cuối cùng đạt đến Tâm Vô Vi, Tâm Vô thượng bồ đề, tức cứu cánh giác ngộ, giải thoát. Một cách tóm tắt, khi thấy được tướng mạo của Thần chú Đại Bi, mỗi khi trì tụng thần chú này hành giả phải phát tâm bồ đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, đối với chúng sanh phải khởi lòng bình đẳng và phải thường nên trì tụng chớ nên gián đoạn. Thần Chú Đại Bi chắc chắn sẽ là phương tiện diệu dụng giúp hành giả mau chóng đạt đến kết qủa trong Thiền định. 4. Vận Dụng Thần Chú Đại Bi Vào Thiền Định Như đã nói ở trên, muốn đạt đến cứu cánh giác ngộ không thể không thông qua phương pháp thiền định. Nhưng khi nghe nói đến Thiền, một người Phật tử bình thường khó hình dung ra nổi và nghĩ đến nó như là một cái gì đó mông lung, trừu tượng, huyền bí. Thậm chí Phật tử rất hoang mang vì trong thời đại hiện nay, có rất nhiều loại "thiền" khác nhau xuất hiện trên thị trường, được khai thác nhằm mục đích thương mãi hơn là giúp con người đạt đến bến bờ giải thoát, và đôi khi biến Thiền trở thành một cái "mốt" thời thượng làm người ta bối rối và dễ bị mê lầm. Cho nên, để có thể tu tập đúng hướng, hành giả cần phải có một số nhận thức căn bản đúng đắn về các loại Thiền Phật giáo. Khái niệm về các loại Thiền Phật Giáo Thiền chỉ Thiền định và Thiền quán Thiền minh sát. Thông thường khi nói đến Thiền là người ta thường nghĩ ngay đến thiền đốn ngộ, đến "dĩ tâm truyền tâm", đến những công án hóc búa... Hình ảnh của những vị Thiền sư "hoát nhiên đạt ngộ" khi tâm thức bùng vỡ trước tiếng thét của một bậc minh sư, khi soi mặt mình trên một vũng nước mưa đọng trước hiên nhà... bỗng trở thành như những câu chuyện thần thoại, người căn cơ thấp kém khó mà lãnh hội được ý nghĩa của sự đạt ngộ này. Như vậy phải chăng Thiền là một thứ "xa xỉ phẩm" chỉ dành riêng cho những bậc thượng căn đã đứng mấp mé ở bên bờ giác ngộ, chỉ cần chờ một sự khai thị đúng lúc là tỏ ngộ chân lý? Dĩ nhiên Thiền không phải hoàn toàn như thế, bởi lẽ nếu hiểu Thiền theo cung cách này thì lịch sử của tông phái Thiền Phật giáo trong suốt bao nhiêu thế kỷ qua chỉ sản xuất ra được mấy chục vị Tổ! Phải nên hiểu rằng các pháp hành thiền, như đã được lưu truyền đến nay trong kinh điển, đều được căn cứ trên những phương pháp mà chính Đức Phật đã áp dụng, căn cứ trên sự kinh nghiệm của chính bản thân Ngài trong suốt quá trình tu tập, trau giồi và phát triển tâm, pháp môn hành thiền đó đã đưa Ngài đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề và Niết Bàn. Để kiểm soát, uốn nắn và giải phóng tâm Phật giáo có hai loại Thiền chính yếu sau đây - Thiền chỉ hay Thiền địnhsamatha bhavana hay samadhi là gom tâm vào một điểm, hay thống nhất, tập trung tâm vào một đề mục cittekaggata, Sanskrit là cittaikagrata, nhất điểm tâm, tức là an trụ tâm. - Thiền Quán hay Thiền Minh Sát vipassana, Sanskrit là vipasyana hay vidarsana, - cũng gọi là thiền tuệ - tức là hướng tâm soi vào đời sống để chứng ngộ thực tướng của vạn pháp. Thiền quán đã được một vị danh tăng Phật giáo đương đại, Đại Đức Piyadassi giải thích như sau "... Danh từ vipassanà vi + passanà, trong một biến thể, có nghĩa là "thấy một cách phi thường", thấy khác với lối thấy thông thường, do hai thành phần "passati" là thấy và "vi" hàm ý đặc biệt, khác lạ hơn thông thường. Như vậy, vipassanà là thấy vượt ra ngoài cái gì thông thường, là minh tuệ. Đây không phải là nhìn thoáng qua. Cũng không phải chỉ nhìn bên trên bề mặt, ở mặt ngoài mà nhìn sâu vào bên trong Thực Tại của đời sống. Chính nhờ cái nhìn sâu sắc căn cứ trên tâm hoàn toàn vắng lặng ấy mà hành giả tẩy sạch mọi bợn nhơ, mọi ô nhiễm ngủ ngầm để thành mục tiêu cuối cùng, Niết Bàn. Thiền minh sát vipassanà bhàvanà là loại thiền mà chính Đức Phật đã tìm ra, đã thực hành, đã thành công và đã ban truyền, trước kia chưa từng có, và ngoài Phật Giáo không có ..." * Pháp hành "thiền chỉ" trong Phật Giáo đưa đến tột đỉnh là đắc Thiền Jhana, trong khi pháp hành "thiền quán" dẫn đến bốn tầng Thánh mà bậc Thánh cuối cùng là A La Hán, hay tiến thêm một bước nữa là đạt qủa vị Phật, giải thoát. Cứu cánh tu tập của chúng ta dứt khoát là không nhắm đến trạng thái Định hay thư giản. Ta vận dụng công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi -bằng cách chuyên tâm trì tụng Thần chú này một số biến nhất định- như là một pháp hành của Thiền Chỉ, và chỉ xem đó như là một cổ xe đưa ta đến bến bờ giác ngộ. Cho nên, khi tâm đã an trụ vững vàng, chúng ta bắt đầu bước vào Thiền minh sát, lúc này dùng hình trạng và tướng mạo của Thần chú Đại Bi làm nội dung thiền quán Tâm Đại Từ Bi, Tâm Bình Đẳng, Tâm Vô Vi,Tâm Không Quán... và nên được bắt đầu bằng Tâm Đại Từ Bi. Tại sao chúng ta bắt đầu nội dung Thiền quán bằng Tâm Đại Từ Bi? Trước tiên, đây là một yêu cầu của Bồ Tát. Trì Chú Đại Bi sẽ không linh nghiệm nếu không được phát khởi bằng Đại Bi tâm. Thứ hai, khi chọn phương pháp thiền định dùng Thần Chú Đại Bi như là phương tiện - vắn tắt xin được tạm gọi là Thiền Quán Âm- chúng ta đã phát tâm noi theo hạnh nguyện ban vui cứu khổ của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nguyện trở thành một cánh tay, một chiến sĩ trong đạo quân tình thương của Ngài, đem gieo rắc ánh sáng từ bi đến khắp muôn loài chúng sanh, góp phần xây dựng một cỏi Tịnh Độ Nhân Gian trên cõi thế. Thiền Quán Âm như thế là một loại thiền tích cực, đi thẳng vào đời sống, tác động vào đồng loại, chúng sanh và môi trường sống. Hành giả khi dùng Thiền quán sẽ vận dụng Tâm Đại Bi làm ngọn đuốc soi đường, rọi chiếu vào tất cả ngỏ ngách tâm linh và hành động của chính mình trong từng mỗi phút giây hiện tại. Làm Thế Nào Để Thực Hiện Đại Từ Bi Tâm Quán? Từ Bi Quán là phương thức để huân tập lòng Từ Bi. Trong Phật giáo có rất nhiều phương pháp Từ bi quán mà cố Hoà Thượng Thích Thiện Hoa đã giảng rõ trong cuốn "Phật Học Phổ Thông", ở đây xin được tóm tắt lại bằng ba phép quán từ thấp đến cao như sau 1. Quán chúng sinh duyên từ Quán sát cảnh khổ của chúng sinh ở trong cõi dục giới mà phát khởi lòng từ. những kẻ bị đọa ở địa ngục hiện đang bị hành phạt, loài ngạ quỷ đói khát.. loài súc sanh trâu, bò heo, gà... bị hành hình, phân thây xẻ thịt làm thức ăn cho loài khác... loài a tu la phải đấu tranh chém giết chúng sanh ở cõi trời khi hết phước đức cũng phải bị đọa lạc những cảnh khổ của kiếp người... Thấy được những cảnh khổ của chúng sinh, để cho lòng từ bi phát khởi, Phật dạy ta phải xem tất cả chúng sinh như là bà con thân thuộc trong một đại gia đình. Nhân loại như đang sống trong một ngôi nhà lớn và rộng ra các loài khác cũng là thành phần của một đại gia đình, do nghiệp duyên ràng buộc, có thể họ đã là bà con quyến thuộc của ta trong kiếp trước hoặc sẽ là anh em cha mẹ ta trong những kiếp tương lai... Quán Pháp duyên từ Cao hơn một bậc, hành giả có thể quán sát thấy tất cả chúng sanh đều có chung pháp tánh cho nên nói như ngài Duy Ma Cật, "vì chúng sanh bệnh nên ta bệnh", chúng sanh khổ nên ta khổ và vì thế ta tìm cách cứu độ chúng sanh. Ta cứu khổ nhưng không cần biết đối tượng được cứu khổ và cũng không chấp rằng ta đang cứu khổ vì ta và chúng sanh đã đồøng một bản thể, đồng một pháp giới tánh. 3. Quán Vô duyên từ Đây là lòng từ bi của chư Phật, theo thể tánh chơn tâm mà phát ra, bao la trùm khắp, không thiên lệch một nơi nào như ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp gần xa một cách vô tư, không dụng công và không bỏ sót một nơi nào. Loại này chúng ta chỉ biết qua chứ không áp dụng vào thiền tập vì quá cao siêu. Thần Chú Đại Bi, Một Con đường tắt đến Tịnh Độ Nói đến Thần Chú Đại Bi, nói đến tu tập Thiền định, ta không thể không nói đến Tịnh Độ. Tại sao? Bởi vì chuyện sinh tử là chuyện quan trọng của đời người. Ta nhận thức được rằng kiếp sống thế gian rất ngắn ngủi và ta cũng không muốn luẩn quẩn mãi trong cảnh luân hồi sinh tử cho nên ta tu tập để mong cầu vươn đến một cảnh giới đích thực, vĩnh cữu. Cảnh giới đó có thể mang tên là Niết Bàn. Cảnh giới đó cũng có thể là Tịnh Độ. Trước hết, khi nói đến Tịnh Độ, Phật tử thường liên tưởng ngay đến một cảnh giới cực lạc. Đó là một cảnh giới lý tưởng, đẹp đẽ, an lành mà bất cứ người con Phật nào cũng thường ước mơ được vãng sanh đến sau khi từ giã cõi đời. Đức Thế Tôn đã tuyên xưng rất nhiều cảnh giới Tịnh Độ trong các kinh sách, mà đặc biệt là cảnh giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà. Để đạt đến cảnh giới này, pháp môn Tịnh Độ đặt nền móng tu tập trên ba nguyên tắc căn bản Tín, Nguyện và Hạnh. Trước hết là lòng tin. Ta tin có sự hiện hữu của cõi Tịnh Độ Tây phương do Đức A Di Đà làm giáo chủ. Tin như thế ta Nguyện sẽ được vãng sanh về cảnh giới này. Nguyện được thể hiện bằng Hạnh qua phương thức trì danh, tức là trong suốt hành trình tu tập của mình ta phải hành trì pháp môn niệm Phật A Di Đà cho đến "nhất tâm bất loạn", thì chắc chắn sẽ được Ngài tiếp dẫn ta về cảnh giới này sau khi ta từ giã cõi đời. Một cảnh giới Tịnh Độ khác cũng thường được Đức Thế Tôn nhắc tới đó là cung trời Đâu Suất Tutsia của Di Lặc, vị Bồ Tát đã được Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ trở xuống cõi trần thành lập hội Long Hoa và trở thành vị Phật tương lai. Nỗ lực của Ngài là hóa độ quần sanh, biến cõi nhân gian thành Tịnh Độ. Quan niệm Tịnh Độ này rất phù hợp với niềm tin và hạnh nguyện của người tu tập theo pháp hành Thiền Quán Âm bởi tính tích cực của nó. Bắt nguồn từ phương châm "Học Phật đạo, hành Bồ Tát đạo", ta sẽ không bao giờ mong cầu mình được sanh về một thế giới cực lạc, hoặc Niết Bàn cho riêng mình. Đây là thông điệp chính yếu của Thần chú Đại Bi, tiếng Phạn là Maha Karuna, mà Karuna có nghĩa là "ngưng tìm kiếm hạnh phúc". Ta ngưng tìm kiếm hạnh phúc, Niết bàn cho chính ta khi muôn loài chúng sanh chưa hạnh phúc, an lạc, chưa đạt được cảnh giới Niết Bàn, như Đức Di Lặc đã thuyết trong kinh Trang Nghiêm Minh Giác "Với từ bi ta không trụ nơi cực lạc an bình", có nghĩa là với Đại Từ Bi ta không mưu cầu sự giải thoát cá nhân. Như vậy, nếu hiểu Tịnh Độ là pháp môn dựa trên căn bản Tín, Nguyện, Hạnh, thì phương pháp hành Thiền sử dụng Thần Chú Đại Bi cũng không xa lìa pháp môn Tịnh Độ, chỉ khác một điểm nhỏ là thay vì trì tụng danh hiệu Phật A Di Đà, chúng ta trì tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Bi Thần Chú. Đến đây, những hành giả bị ảnh hưởng sâu đậm bởi tư tưởng Tịnh Độ -những người thường lo lắng đến hậu sự- chắc chắn sẽ nêu ra câu hỏi Nhưng rồi sau khi quá vãng, chúng ta, những người tu tập Thiền định -Thiền Quán Âm, nếu không đạt được giác ngộ trong hiện kiếp sẽ vãng sanh về đâu? Thưa bạn, câu hỏi đặt ra thật đúng lúc, vì qủy vô thường có thể đến thăm viếng ta bất cứ lúc nào, tốt hơn hết là ta nên chuẩn bị. Tuy nhiên, bạn cũng đừng phí thì giờ để lo nghĩ nhiều đến vấn đền này vì bạn nhớ không, trong kinh Đại Bi, Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa với chúng ta rằng những người trì tụng thần chú Đại Bi chắc chắn sau khi chết sẽ không bị rơi vào con đường ác đạo. Những điều Bồ Tát đã hứa là chắc chắn không thể nào thay đổi, có nghĩa là bạn đã biết chắc một điều rằng mình sẽ không bao giờ bị rơi vào con đường ngạ quỹ, địa ngục hay súc sanh. Như vậy vấn đề còn lại quả thật rất đơn giản Bạn có quyền tự do lựa chọn cảnh giới Tịnh Độ mà mình mong muốn để được vãng sanh kể cả về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Tuy nhiên, do noi theo hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn của Bồ Tát Quán Thế Âm, người hành Thiền Quán Âm như đã nói ở trên, không phải chỉ mưu cầu giải thoát cho riêng cá nhân mình mà còn muốn bắt tay vào việc cãi thiện xã hội, môi trường, xây dựng một cõi Tịnh Độ nhân gian trên cõi thế, cho muôn loài chúng sanh, trong thời đại mà chúng ta đang sống cho nên gần gũi hơn với Tịnh Độ Di Lặc. Do tính cách tích cực đó, xin được đề nghị thêm với bạn ba cảnh giới sau đây để suy nghĩ và chọn lựa. Sau khi đã có quyết định, bạn phải phát nguyện ngay cùng Bồ Tát Quán Thế Âm để Ngài thọ ký cho và chắc chắn bạn sẽ được Ngài hiện đến tiếp dẫn trước phút lâm chung, hướng dẫn bạn đến cảnh giới mong cầu Tái sanh trở lại cõi trần tiếp tục hành Bồ tát đạo, hoằng pháp lợi sanh, biến cõi nhân gian thành Tịnh Độ. Về cảnh giới của Bồ Tát Địa Tạng, tức là xuống cõi địa ngục tiếp tục tu tập cùng Bồ Tát, thực hành công hạnh theo lời nguyện "Nếu con hướng về cõi địa ngục, địa ngục liền mau tự tiêu tan". Về cõi Trời Đâu Suất của Bồ Tát Di Lặc để tiếp tục tu học, cho đến khi nào Bồ Tát giáng trần ta sẽ cùng theo chân Ngài trở lại cõi thế dự hội Long Hoa. Tuy nhiên, xin được nhắc lại một lần nữa, điều quan trọng nhất là chúng ta hiện đang sống trong cõi thế này, trong giây phút hiện tại này, cho nên công việc trước mắt của người Phật tử chúng ta là phải bắt tay ngay vào việc xây dựng một cõi Tịnh Độ Nhân Gian, tức cũng là cõi Tịnh Độ Di Lặc mà mọi Phật tử đều mong cầu, mơ ước. Đó cũng chính là thông điệp của Thần Chú Đại Bi. Xin chắp tay trì tụng và hồi hướng công đức vô lượng của Thần Chú này đến muôn loài chúng sanh...Tâm Hà Lê Công Đa
Trân trọng cảm ơn bạn đã đến với Download nhạc Mp3 Chú Đại Bi mới online, Tải Mp3 Chú Đại Bi Mp3 Tải Nhạc Chú Đại Bi trực tuyến, Nghe nhạc Chú Đại Bi mới nhất. Lời bài hát Chú Đại Bi Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ tát Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ tát Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ tát Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi tâm đà la ni. Nam mô hắc ra đác na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ - đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da dế, ma ha phạt xà da dế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà đủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thướt bàng ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. Xem thêm Album Video / MV
1. Video Chú Đại Bi – 21 Biến Tiếng Phạn Chữ Phát Hào Quang – Peto 2. Video CHÚ ĐẠI BI 21 biến Tiếng Phạn – Peto – Quan Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay 3. Video Chú Đại Bi – Giọng trì chú rất hay, nhẹ nhàng, thanh thoát trì 21 biến 4. Video Chú Đại Bi – Phi Nhung 5. Video Phương Mỹ Chi – Chú Đại Bi Nhạc Hoa, Tiếng Phạn Official MV Lyrics Album “BÁT NHÃ THUYỀN” 6. Chú Đại Bi 7 biến – Chữ lớn dễ đọc trên Smartphone 7. Tụng Chú Đại Bi 7 Biến Có chữ -Giọng đọc nhanh -ĐĐ Thích Trí Thoát 8 CHÚ ĐẠI BI TIẾNG PHẠN – Tránh được tà ma, hung khí, an thần, dễ ngũ. Chú Đại Bi là gì ? Nguồn gốc 84 câu chú đại bi Bản kinh Chú Đại Bi tiếng Phạn Maha Karuna Dharani Nghe Chú Đại Bi có tác dụng gì Ý nghĩa của Chú Đại Bi ***** Top 7 video mp3 Chú Đại Bi hay nhất bạn nên nghe 1. Video Chú Đại Bi – 21 Biến Tiếng Phạn Chữ Phát Hào Quang – Peto 2. Video CHÚ ĐẠI BI 21 biến Tiếng Phạn – Peto – Quan Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay 3. Video Chú Đại Bi – Giọng trì chú rất hay, nhẹ nhàng, thanh thoát trì 21 biến 4. Video Chú Đại Bi – Phi Nhung 5. Video Phương Mỹ Chi – Chú Đại Bi Nhạc Hoa, Tiếng Phạn Official MV Lyrics Album “BÁT NHÃ THUYỀN” 6. Chú Đại Bi 7 biến – Chữ lớn dễ đọc trên Smartphone 7. Tụng Chú Đại Bi 7 Biến Có chữ -Giọng đọc nhanh -ĐĐ Thích Trí Thoát 8 CHÚ ĐẠI BI TIẾNG PHẠN – Tránh được tà ma, hung khí, an thần, dễ ngũ. Chú Đại Bi là gì ? Chú Đại Bi đề cập đến lời tụng của Thanh Cảnh Quan Âm. Theo kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc Hội kiến của các Phật, bồ tát, các thần và vương. Cũng như câu Om Mani Padme Hum rất phổ biến ngày nay, Đại Bi chú là chân ngôn phổ biến cùng với phật Quán Thế Âm ở Đông Á, bài chú này thường được dùng để bảo vệ hoặc để làm thanh tịnh, quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn! Chú Đại Bi tiếng Phạn महा करुणा धारनी, Mahā Karuṇā Dhāranī hay Đại Bi Tâm Đà La Ni Mahā Karuṇā-citta Dhāranī, tên gọi đầy đủ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bố Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh Đại Bi Thần Chú, còn được gọi là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm Đại Bi Chú Sahasrabhuja Sahasranetra Avalokiteśvara Mahā Karuṇā Dhāranī, Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Vô Ngại Đại Bi Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Đà La Ni, Mãn Nguyện Đà La Ni, Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni, Cứu Khổ Đà La Ni, Diên Thọ Đà La Ni, Diệt Ác Thú Đà La Ni, Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni, Tốc Siêu Thập Địa Đà La Ni, là tên gọi của Thanh Cảnh Quan Âm Đại Bi Chú tiếng Phạn नीलकण्ठ धारनी,Nīlakaṇṭha Dhāraṇī tên gọi khác là Thanh Cảnh Đà La Ni. Tại Bán đảo Triều Tiên thường được gọi là Thần Diệu Chương Cú Đại Đà La Ni tiếng Triều Tiên 신묘장구대다라니 là bài chú trong “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh” “Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh” của Phật giáo Đại thừa, có 84 câu được soạn bằng tiếng Wikipedia Nguồn gốc Trong Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh Đức Phật Đà nói với Tôn giả A-nan-đà “như là thần chú, có nhiều tên gọi khác nhau tên là Quảng Đại Viên Mãn, tên là Vô Ngại Đại Bi, tên là Cứu Khổ Đà La Ni, tên là Diên Thọ Đà La Ni, Diệt Ác Thú Đà La Ni, Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni, Mãn Nguyện Đà La Ni, Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni, Tốc Siêu Thập Địa Đà La Ni”. Tên của chú này thể hiện sức mạnh từ bi vĩ đại của Quán Thế Âm Bồ Tát mong muốn hạnh phúc và lợi ích cho tất cả chúng sinh, không có chướng ngại cho lòng đại bi, và thần chú này không chỉ có thể tiêu trừ mọi tai họa, mà còn tất cả các nghiệp ác; Và nó có thể đáp ứng mọi pháp thiện và thực hiện mong muốn của mọi người; tránh xa mọi nỗi sợ hãi oán hận, đức uy thần nhanh chóng lên đến Cõi Phật. Người ngày nay được đặt tên theo tên viết tắt của “Chú Đại Bi”, được đặt tên theo sức mạnh từ bi của Bồ tát Quán Thế Âm đối với tất cả chúng sinh. Chú này được tuyên thuyết bởi 99 ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ, sau vào lúc tịnh độ của Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai truyền thụ cho Quan Thế Âm Bồ Tát “Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Đà La Ni”, và nói rằng “Thiện Nam Tử, ông nên thọ trì tâm chú này để rộng vì hết thảy chúng sanh trong đời ác vị lai mà làm cho họ an vui và được sự lợi ích lớn”. Vào lúc bấy giờ sau khi nghe chú, Quan Thế Âm Bồ Tát đang ở Địa Thứ Nhất, liền siêu vượt đến Địa Thứ Tám. Vì vậy tâm sanh hoan hỷ, liền phát lời thệ nguyện rằng “Vào đời vị lai, nếu con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh, thì hãy khiến thân con lập tức đầy đủ ngàn tay ngàn mắt”, Sau khi phát nguyện xong, trên thân tức khắc đều trọn đủ ngàn tay ngàn mắt. Khắp các quốc độ trong mười phương, đại địa chấn động sáu cách. Chư Phật trong mười phương đều phóng quang minh vô lượng chiếu đến thân chiếu soi vô biên thế giới khắp mười Wikipedia 84 câu chú đại bi Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát 3 lần Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni 1. Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da 2. Nam Mô A Rị Da 3. Bà Lô Yết Đế Thước Bát Ra Da 4. Bồ Đề Tát Đỏa Bà Da 5. Ma Ha Tát Đỏa Bà Da 6. Ma Ha Ca Lô Ni Ca Da 7. Án 8. Tát Bàn Ra Phạt Duệ 9. Số Đát Na Đát Tỏa 10. Nam Mô Tất Kiết Lật Đỏa Y Mông A Rị Da 11. Bà Lô Yết Đế Thất Phật Ra Lăng Đà Bà 12. Nam Mô Na Ra Cẩn Trì 13. Hê Rị Ma Ha Bàn Đa Sa Mế 14. Tát Bà A Tha Đậu Du Bằng 15. A Thệ Dựng 16. Tát Bà Tát Đa Na Ma Bà Tát Đa Na Ma Bà Già 17. Ma Phạt Đạt Đậu 18. Đát Điệt Tha 19. Án A Bà Lô Hê 20. Lô Ca Đế 21. Ca Ra Đế 22. Di Hê Rị 23. Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa 24. Tát Bà Tát Bà 25. Ma Ra Ma Ra 26. Ma Hê Ma Hê Rị Đà Dựng 27. Cu Lô Cu Lô Yết Mông 28. Độ Lô Độ Lô Phạt Xà Da Đế 29. Ma Ha Phạt Xà Da Đế 30. Đà Ra Đà Ra 31. Địa Rị Ni 32. Thất Phật Ra Da 33. Giá Ra Giá Ra 34. Mạ Mạ Phạt Ma Ra 35. Mục Đế Lệ 36. Y Hê Y Hê 37. Thất Na Thất Na 38. A Ra Sâm Phật Ra Xá Lợi 39. Phạt Sa Phạt Sâm 40. Phật Ra Xá Da 41. Hô Lô Hô Lô Ma Ra 42. Hô Lô Hô Lô Hê Rị 43. Ta Ra Ta Ra 44. Tất Rị Tất Rị 45. Tô Rô Tô Rô 46. Bồ Đề Dạ Bồ Đề Dạ 47. Bồ Đà Dạ Bồ Đà Dạ 48. Di Đế Rị Dạ 49. Na Ra Cẩn Trì 50. Địa Rị Sắc Ni Na 51. Ba Dạ Ma Na 52. Ta Bà Ha 53. Tất Đà Dạ 54. Ta Bà Ha 55. Ma Ha Tất Đà Dạ 56. Ta Bà Ha 57. Tất Đà Du Nghệ 58. Thất Bàn Ra Dạ 59. Ta Bà Ha 60. Na Ra Cẩn Trì 61. Ta Bà Ha 62. Ma Ra Na Ra 63. Ta Bà Ha 64. Tất Ra Tăng A Mục Khê Da 65. Ta Bà Ha 66. Ta Bà Ma Ha A Tất Đà Dạ 67. Ta Bà Ha 68. Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ 69. Ta Bà Ha 70. Ba Đà Ma Yết Tất Đà Dạ 71. Ta Bà Ha 72. Na Ra Cẩn Trì Bàn Dà Ra Dạ 73. Ta Bà Ha 74. Ma Bà Lợi Thắng Yết Ra Dạ 75. Ta Bà Ha 76. Nam Mô Hắc Ra Đát na Đa Ra Dạ Da 77. Nam Mô A Rị Da 78. Bà Lô Yết Đế 79. Thước Bàn Ra Dạ 80. Ta Bà Ha 81. Án Tất Điện Đô 82. Mạn Đà Ra 83. Bạt Đà Dạ 84. Ta Bà Ha Lặp lại 3 lần từ câu Chú 81 đến 84 khi quý vị trì biến cuối cùng Bản kinh Chú Đại Bi tiếng Phạn Maha Karuna Dharani Namo ratnatràyàya. Namo Aryàvalokites’varàya Bodhisattvaya Mahasattvaya Mahàkarunikàya. Om sarva rabhaye sunadhàsya. Namo skirtva imam aryàvalotites’vara ramdhava. Namo narakindhi hrih mahàvadhasvàme. Sarvàrthato subham ajeyam sarvasata. Namo varga mahàdhàtu. Tadyathà om avaloki lokate karate. Ehrih mahà bodhisattva sarva sarva mala mala. Mahi hrdayam kuru kuru karman. Dhuru dhuru vijàyate mahàvijayati. Dhara dhara dhirini svaràya. Cala cala mama vimala muktir. Ehi ehi s’ina s’ina àrsam prasari. Basha basham prasàya hulu hulu mara. Hulu hulu hrih sara sara siri siri suru suru. Bodhiya bodhiya bodhaya bodhaya. Maitreya narakindi dhrish nina. Bhayamana svaha siddhaya svàhà. Maha siddhàya svaha. Siddha yoge s’varaya svaha. Nirakindi svàhà. Mara nara svaha s’ira Simha mukhàya svaha. Sarva maha asiddhaya svaha. Cakràsiddhaya svaha. Padma kastàya svaha. Nirakindi vagalàya svaha. Mavari śankaraya svāhā. Namo ratnatràyàya. Namo aryàvalokites’varaya svaha. Om siddhyantu mantra pàdàya svàhà. Nghe Chú Đại Bi có tác dụng gì Ý nghĩa của Chú Đại Bi Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn! Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật. Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng. Tổng hợp từ nhiều nguồn trên Internet Đăng bởi Nguyễn Thị Diễm QuỳnhTừ khoá Chú Đại Bi – TOP 7 Video/Mp3 Chú Đại Bi hay nhất bạn nên nghe
chú đại bi giọng miền bắc